Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Khám phá vẻ đẹp hoang sơ của Bến En

Vườn Quốc gia Bến En – Thanh Hoá (thành lập năm 1992) được biết đến là một quần thể sinh thái có hệ thống núi - sông - hồ rộng trên 16.000ha với hệ động thực vật phong phú, đa dạng; là quê hương của loài lim xanh nổi tiếng của Việt Nam.
Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho Bến En một vẻ đẹp hoang dã, nguyên sơ mà đầy quyến rũ, tinh khôi hãy để Công Ty Du Lịch Đặc Trưng Việt giúp du khách thả lòng say mê khám phá và hoà mình với thiên nhiên.
Vườn quốc gia Bến En là nơi sinh sống của nhiều loài động- thực vật quý hiếm. Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, vườn có 50 bộ, 177 họ, 216 giống và hơn 1.000 loài động vật, trong đó có 91 loài thú, 201 loài chim, 54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái, 68 loài cá, 499 loài côn trùng.
Nơi đây có nhiều loài động vật nằm trong sách Đỏ như: voi, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, khỉ mặt đỏ, vượn bạc má... Đến với Bến En, du khách sẽ có cảm giác như lạc vào thế giới thần tiên với sông nước mây trời hư ảo, bởi khung cảnh thơ mộng của hồ Sông Mực. Được tạo bởi 4 con suối và sông Mực, bốn mùa mặt hồ luôn xanh biếc, tĩnh lặng và lưu giữ những truyền thuyết ly kỳ. Chuyện kể rằng, thuở trời đất còn hỗn mang, có một con mực khổng lồ là con của Long Vương ham cảnh đẹp nơi đây, mải chơi đến nỗi quên lối về. Khi nước rút, mực bị mắc cạn nên cố vùng vẫy, vết tích còn lưu đến bây giờ. Nơi mực chết tạo thành hồ Bến En, tua mực là các con suối. Chính vì vậy hồ có tên là Sông Mực, rộng 4.000ha, sâu hàng chục mét, với 21 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên cảnh quan vô cùng quyến rũ.
Được hoà mình vào thiên nhiên và thưởng ngoạn một quần thể du lịch vừa có núi, có rừng, có sông hồ và hang động bởi sự đặc biệt đó mà Bến En luôn níu chân du khách và mong muốn có nhiều thời gian hơn để được khám phá, thưởng thức vẻ đẹp huyền ảo của một “Hạ Long trên núi’’ Loài vượn bạc má Dạo thuyền trên mặt hồ mới thấy hết được vẻ đẹp thiên tạo vốn được ví như “một Hạ Long thu nhỏ’’ với những tên gọi rất ấn tượng: đảo Mẹ, đảo Tình Yêu, đảo Tương Lai,... nhiều bán đảo với những dải rừng xen lẫn, những mỏm đá với nhiều hình thù lạ mắt tạo nên cảnh quan “sơn thuỷ, hữu tình’’. Du khách có thể thuỳ ý lựa chọn 1 trong 8 tuyến du lịch bằng thuyền để thăm các ốc đảo trong đó tuyến ngắn nhất là 1.5km, tuyến dài nhất là 8.5km.
Du khách có thể đến thăm đảo động vật, đảo thực vật, ngắm cảnh hang động với nhiều hình thù kỳ lạ được sắp đặt bởi bàn tay của tạo hoá... Đến với Bến En du khách đừng quên ghé thăm động Suối Tiên một quần thể du lịch hấp dẫn, đa dạng với nhiều giá trị lịch sử - văn hoá; đồng thời là vẻ đẹp tự nhiên, ban sơ vốn có mà hầu như chưa có sự can thiệp của con người. Tương truyền rằng, tại hang này các nàng tiên thường tới vui chơi và tắm mát. Trong dãy núi đá Hải Vân, ngoài cụm hang đẹp như hang Ngọc, động Tiên, còn có khu di tích lịch sử hang Lò Cao gắn liền với Giáo sư, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa trong kháng chiến chống Pháp. Dưới sự chỉ huy của ông những mẻ gang quý giá dùng để sản xuất vũ khí đã ra đời góp phần cùng quân và dân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Nơi đây là sự lựa chọn lý tưởng để du khách tham gia các hoạt động như dã ngoại, cắm trại, câu cá, bắt cua đá, nướng cá...
Du khách sẽ được thưởng thức những món ăn đặc sản như: Cá mè khổng lồ ở hồ sông Mực (mỗi con nặng 20-30kg) được chế biến thành nhiều món đặc biệt là món cá mè nấu chua, cháo cá mè thơm ngon và bổ dưỡng, cá mè được hấp với lá rừng một loại được phẩm quý hiếm... làm nên một hương bị khó quên mỗi khi thưởng thức. Đến với Bến En là du khách đến với vùng đất của những phong tục tập quán, lễ hội của các dân tộc Thổ, Mường, Thái... gắn với các đền như: Phủ Sung, Khe Rồng, Phủ Na... Tất cả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người ở đây đã tạo cho Bến En nói riêng và Như Thanh nói chung một nét độc đáo của hệ sinh thái tự nhiên mà ít nơi nào có được.
Vẻ đẹp hoang sơ của Bến En đã làm say đắm lòng người, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng biết bao du khách khi đến với nơi đây. Còn gì bằng khi xếp lại những bộn bề của công việc và cuộc sống để thả hồn mình với biển Sầm Sơn trong xanh mang hương vị mặn mòi của biển hay thăm các di tích - danh thắng nổi tiếng xứ Thanh; sau đó du khách dừng chân ở Bến En để thoảng ngoạn không khí êm đềm, mát dịu của rừng - núi - sông - hồ chắc chắn sẽ đem đến cho du khách một tour du lịch hấp dẫn và một kỳ nghỉ dưỡng đáng nhớ.

Chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Du lịch Đặc Trưng Việt
Điện thọai: (+84) 974 861 652
Yahoo: vietnamtypicaltours | Skype: vietnamtypicaltours
Email: vietnamtypicaltour@gmail.com

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Du Lịch Tâm Linh Nghệ An

Mộ bà Hoàng Thị Loan
Vị trí: Mộ bà Hoàng Thị Loan nằm trên núi Động Tranh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Mộ bà được xây năm 1985, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 95 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901) là người mẹ Việt Nam tiêu biểu có công nuôi dạy nên những người con yêu nước, trong đó có cậu bé Nguyễn Sinh Cung, sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ chân núi Động Tranh, lối lên phần mộ Bà nằm ở bên trái phần mộ có 269 bậc (con số 69 là năm Bác Hồ mất - 1969), lối xuống bên phải phần mộ có 242 bậc (con số 42 là năm cậu Khiêm;đưa hài cốt mẹ về đây - 1942). Trước phần mộ xuống sân bia 33 bậc, con số 33 là tuổi đời của Bà. Phía trên mộ là dàn hoa cách điệu hình khung cửi. Hai cụm cây hoa giấy che mát phần mộ Bà được lấy giống từ Huế - nơi bà mất và khu lăng mộ của ông Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp. Khe trước phần mộ trồng nhiều cây quí từ nhiều miền đất nước.
Di tích lưu niệm cụ Phan Bội Châu
Vị trí: Di tích lưu niệm cụ Phan Bội Châu nằm ở thôn Sa Nam, xã Đông Liệt, thị trấn Nam Đàn, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Khu lưu niệm trên diện tích gần 2000m². Tại đây có ngôi nhà mà cụ Phan Bội Châu đã sinh ra và sống tới năm 38 tuổi.
Công trình đã được tôn tạo để trở thành khu lưu niệm đón khách trong và ngoài nước đến thăm từ tháng 10/1990. Công trình với ngôi nhà đơn sơ ấy nhưng đã góp phần làm nên cốt cách nhà văn hoá, nhà yêu nước, nhà thơ Phan Bội Châu.
Thành cổ Nghệ An
Vị trí: Thành Nghệ An thuộc địa phận ba phường Cửa Nam, Đội Cung và Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Thành Nghệ An được xây dựng năm 1804 và đã tu tạo, nâng cấp nhiều lần.
Thành có sáu cạnh, ba cửa; chu vi khoảng 2.400m; tường cao 4,4m; diện tích chừng 420.000m²; bao quanh là hào nước sâu chừng 3m. Trong thành phía đông có dinh tổng đốc, phía nam có dinh bố chánh, án sát, lãnh binh, đốc học; phía bắc là trại lính và nhà ngục. Toà thành là chứng tích của nhiều sự kiện lịch sử thời nhà Nguyễn và cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
Chùa Sư Nữ (chùa Cần Linh)
Vị trí: Chùa Sư Nữ toạ lạc tại phường Cửa Nam, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Ngôi chùa đều do các vị sư là nữ trông coi nên có tên chùa Sư Nữ, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 19.
Đây là một ngôi chùa đẹp, với gần 100 pho tượng thể hiện nghệ thuật điêu khắc tài ba của nghệ nhân đương thời, trong đó có bức tượng quý là Phật Thích Ca đặt tại trung tâm thượng điện.
Nhiều du khách khi đến Nghệ An ghé thăm vãn cảnh ngôi chùa độc đáo đã được nhà nước quyết định xếp hạng di tích tháng 1/1992.
Đền Hồng Sơn
Vị trí: Đền Hồng Sơn toạ lạc trên mảnh đất đẹp, trên đường Hồng Sơn, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Đền được xây dựng năm 1839, thờ Quan Vân Trường. Đền đã được trùng tu nhiều lần.
Hiện tại có 19 hạng mục kiến trúc khá hoàn hảo: tường rào; cổng hồ bán nguyệt; tam quan bắc môn; nhà bia; trụ biểu; sân ngự uyển; gác chuông; lầu trống; tháp miếu; tả vu; hữu vu; 2 cung hậu hiền và hạ hiền; hạ điện; sân giữa; trung và thượng điện. Trong đền còn lưu giữ 383 hiện vật quý như tượng, câu đối, chuông, bia đá...
Đền Hồng Sơn là một trong số công trình kiến trúc nghệ thuật và là chốn linh thiêng quý hiếm còn lại trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Đền Quả Sơn
Vị trí: Đền được xây dựng tại chân núi Quả, xã Bạch Ngọc, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Đặc điểm: Đây là một trong những ngôi đền lớn của tỉnh Nghệ An. Đền thờ Lý Nhật Quang, Tri Châu Nghệ An, một danh tướng, lương thần kiệt xuất.
Đền hiện nay có kiến trúc cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, là công trình hội tụ tư duy sáng tạo, bàn tay tài hoa của nghệ nhân xứ Nghệ. Trong đền còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, trong đó có tượng Lý Nhật Quang to bằng người thật, tư thế ngồi, hai tay bắt quyết để ngửa trên đầu gối. Bức tượng đặt trong cung cấm, chỉ đến ngày lễ trọng mọi người mới được chiêm bái.
Lễ hội Đền Quả diễn ra trong ba ngày 19 đến 21 tháng giêng âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội lớn thu hút đông đảo cư dân trong vùng và khách thập phương.
Đền Cuông
Vị trí: Đền nằm trên núi Mộ Dạ, một ngọn núi thuộc dãy Đại Hải, bên quốc lộ số 1A, trên địa bàn xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía bắc.
Đặc điểm: Đền thờ Thục An Dương Vương.
Ðền Cuông là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng và cũng là một danh thắng mà bất cứ ai đã đến sẽ khó quên bởi sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thoả thuận từ ngàn đời trước giữa tạo hoá và bàn tay con người.
Kiến trúc đền theo kiểu chữ "Tam".Tam quan đồ sộ, cổ kính rêu phong, cổng giữa ba lầu, chằng chịt rễ cây si leo bám càng tôn nét cổ kính của ngôi đền. Toà trung điện theo kiểu chồng diêm 8 mái, các toà khác trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút. Các công trình đều đồ sộ, cột to, tường dày vững chắc nhưng không thô vì các chi tiết, hoa văn được đắp, chạm tinh tế, mà lại toát lên vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát.
Thượng điện đặt ban thờ Thục An Dương Vương, qua khoảng sân hẹp sang trung điện đặt ban thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua chế tác nỏ thần.
Đền Cuông có nhiều di vật quý: trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí... Nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu nhắc nhở con cháu, muôn dân luôn nhớ ân đức vua Thục An Dương Vương.
Đến đền Cuông là dịp được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cảnh quan, nét đẹp kiến trúc và tưởng nhớ vị vua An Dương Vương huyền thoại.
Đền Cờn
Vị trí: Đền Cờn nằm trên Gò Diệc, thuộc địa phận xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; cách thành phố Vinh khoảng 75km.
Đặc điểm: Đền được xây dựng kiên cố từ thế kỷ 15, thế cận biển, kề sông, liền đường, sát núi. Đền thờ tứ vị Thánh Nương, Đế Bính, Trương Thế Kiệt và Lục Tá Phù.
Quy mô của đền tuy không lớn, chiều dài 17,4m, rộng 9,6m với ba gian 2 hồi, nhưng hội tụ nhiều nét văn hoá đương thời, từ vật liệu, kỹ thuật xây dựng đến đường nét chạm khắc, tạo hình... Tất cả cho thấy trình độ tay nghề điêu luyện của người xưa. Tại đây còn lưu giữ 142 hiện vật quý hiếm, đặc biệt có 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ là những tác phẩm nghệ thuật có niên đại từ thời Lê.
Đền Cờn, một danh thắng, một di tích kiến trúc độc đáo, một địa chỉ văn hoá tâm linh của xứ Nghệ.

Chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Du lịch Đặc Trưng Việt
Điện thọai: (+84) 974 861 652
Yahoo: vietnamtypicaltours | Skype: vietnamtypicaltours
Email: vietnamtypicaltour@gmail.com

Đến Thăm Làng Nghề Người Thổ Thanh Hóa

Không chỉ có một lễ hội Đền Thi nổi tiếng, đồng bào Thổ xứ Thanh còn sáng tạo ra một nghề thủ công truyền thống từ rất lâu, đó là nghề dệt sợi gai. Cần cù như loài ong làm mật cho đời, những Mê, những Ún trong bản làng nghèo khó xưa kia đã ngày ngày chăm chỉ, khéo léo dệt sợi đan lưới, thêu chăn, làm võng, may váy… Cùng với những bí quyết trong cách dệt, những sản phẩm hữu ích này qua nhiều đời đã kết tinh thành giá trị văn hóa độc đáo của người Thổ quê Thanh…
Sợi gai được dệt từ vỏ cây gai, một loại cây thuộc họ tầm ma, lá của nó thường dùng để làm loại bánh đặc sản - bánh gai. Đi qua nhiều tháng năm, nghề dệt sợi gai đã trở thành tập quán, hình thành nên một thời gian biểu sản xuất tương đối ổn định của đồng bào Thổ nơi đây. Họ tích lũy được kinh nghiệm dân gian quý báu trong việc sản xuất sợi gai như một kỹ năng khá thuần thục, cụ thể: chọn đất Giếng (nương mới phát, tốt màu) để trồng cây gai; trồng từ hạt và tập trung vào mùa xuân để có năng suất; chọn cây lấy hạt làm giống là cây có 1 củ sẽ không bị sâu bệnh và có sản lượng cao. Người Thổ ở Thanh Hóa cũng lão luyện trong việc tìm kiếm vỏ và các loại củ cây để chế làm màu nhuộm sợi cho bền, đẹp như lá Khót vàng, lá Thơm…nhưng kỳ công và tinh xảo hơn cả là quy trình chế tác.
Để dệt những tấm sợi gai như ý, người Thổ chú trọng đến công cụ chế biến sợi như dao bóc sợi, dao tước sợi, nồi đồng to để luộc sợi gai và thanh tre vót nhọn để se sợi. Công cụ để dệt là bàn làm bằng tre, khung cửi dệt hay gọi là khung con cú, đòn ngồi là tấm ghế băng, trục cuốn vải. Khuôn dệt dài được vót nhẵn từ những nan tre già, cỗ go để khi dệt mà dận chân đòn thì tạo được khe hở cho con thoi chạy qua. Con thoi làm bằng gỗ nghiến hoặc bằng sừng, thanh văng được làm bằng cột tre già để giữ cho mặt vải luôn được và đều sợi. Vải dệt từ sợi gai có dộ mịn, đẹp và rất bền được người đương thời đánh giá khá cao cả về hình thức và giá trị sử dụng. Vải sợi gai được dùng để dệt váy, làm khăn đội đầu, thắt lưng, vỏ chăn…
Thả hồn theo từng lao tay kết hợp bước dận chân nhịp nhàng, cùng mắt lẹ nhanh để mắc cửi đều đặn và chính xác cho các sợi se khít vào nhau, người Thổ đã dệt nên không biết bao mét sợi, tấc vải đưa lại lợi ích và làm giàu bản sắc văn hóa cho quê hương xứ Thanh.

Chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Du lịch Đặc Trưng Việt
Điện thọai: (+84) 974 861 652
Yahoo: vietnamtypicaltours | Skype: vietnamtypicaltours
Email: vietnamtypicaltour@gmail.com

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Đặc sản xứ Nghệ không thể bỏ qua

Nghệ An không chỉ có non xanh nước biếc, du khách đến đây còn được thưởng thức những đặc sản, món ăn ngon mang đậm hương vị xứ Nghệ.
1. Cam xã Đoài
Cam xã Đoài có vị đặc biệt thơm ngon, vỏ mỏng, rất nhiều nước, nguồn giống chọn lọc sạch, không sâu bệnh. Ngay từ tháng 10, tháng 11 âm lịch thường đã có khách đến đặt mua. Cam chín rộ vào dịp trước Tết.
Cam khi mới chín có màu vàng rồi chuyển sang sẫm dần nhưng luôn giữ được vẻ tươi tắn, ngoài có lớp the mỏng, chỉ cần khẽ sây xát là đã thoát một mùi thơm đặc biệt, bổ ra màu vàng óng, ăn rất thơm ngon. Nếu đem ngâm với rượu sẽ cho một sản phẩm rượu thơm, vị ngọt thanh, có thể dùng làm món khai vị hoặc bồi dưỡng sức khỏe cho sản phụ.
2. Măng đắng
Măng đắng có thể chế biến theo nhiều cách: xào mẻ, hầm (hoặc nấu canh) xương, luộc và nhất là với những người sành món này thì thường phải nướng; măng nướng thơm bùi chấm muối – thứ muối tinh được nghiền kỹ với trái ớt hái từ trong các cánh rừng. Món này mới ăn lần đầu cảm giác đắng không chịu được, nhưng càng nhai kĩ, vị đắng sẽ mất dần, thay vào đó, nếu nhẩn nha nhai là vị thoang thoảng ngọt, nhè nhẹ cay, rất lạ. Măng đắng có hầu như quanh năm, nhưng nhiều nhất là mùa mưa.
3. Nhút Thanh Chương
Nhút là thức ăn dân dã, truyền thống của mọi gia đình. Vật liệu làm nhút gồm mít xanh và muối trắng không i-ốt. Nhút có thể chấm nước mắm, làm nộm, xào. Với các món này, có một thứ rau thơm không thể thiếu được là lá kinh giới. Nhút chua nấu canh cá ăn có vị chua bùi và rất thơm. Thanh Chương còn một loại nhút khác, đó là lấy xơ mít mật (mít bở) chín, đồ nhuyễn với muối, gói vào mo cau tươi ủ ít ngày, thái nhát mỏng ăn có thêm vị ngọt và hương mít chín. Có thể chế biến thành các món như loại nhút làm từ mít xanh.
4. Tương Nam Đàn
Tương Nam Đàn là một loại nước chấm hoặc kho cá. Chấm rau muống hoặc rau lang gừng, kho cá sông, cá đồng với nồi đất Kẻ Trù. Vật liệu để làm tương là nếp, ngô, đậu tương (đậu nành). Ngô và đậu rang, xay, ngâm rồi phơi (ngô không ngâm, ủ với lá nhãn làm mốc), đặc biệt đậu chỉ xay hoặc giã vỡ đôi, vỡ ba, không vỡ vụn như tương bần miền Bắc, đảm bảo khi lấy ra bát thấy mẻ đậu như từng con thuyền bé xíu nổi trên mặt bát nước vàng óng, ăn có vị mặn, ngọt, nếu chấm có dính mẻ đậu thì có vị bùi.
5. Cháo lươn Vinh
Cháo lươn Vinh loãng, không đặc như cháo vịt Vân Đình, cháo dê Ninh Bình… Lươn xé dọc sợi, được xào nấu cẩn thận, mặn một tí, cay một tí; và mùi đặc trưng nhất của cháo lươn Vinh được làm nên từ rau răm. Cháo lươn có mặt hầu khắp thành phố. Ngoài ra, ngày nay có cả súp lươn cũng ngon không kém. Cháo lươn, súp lươn có thể ăn với bánh mì, bánh mướt… đều ngon. Vào mùa trời bắt đầu nóng, khách ăn cháo hoặc xúp lươn đừng quên gọi thêm một cốc trà (hoặc chè xanh) đá.
6. Cá mát sông Giăng
Cá mát không phải là giống cá lớn, thường chỉ bằng hai hoặc ba ngón tay người lớn, con “bự” cũng chỉ chừng 0,5 đến 0,8 kg. Hàng năm, tháng 8 âm lịch là vào mùa cá mát. Thịt cá mát rất lành, bổ, thơm ngon, hơi có vị đắng vì khi chế biến không vứt bỏ ruột (ruột cá rất sạch vì chủ yếu ăn thức ăn thực vật), mỡ béo ít xương và ngon nhất là phần đầu (không như các loại cá khác, đầu cá mát rất mềm, giòn). Cá mát có thể kho, rán, nướng… Dù chế biến theo kiểu nào thì thịt cũng rất bùi, rất thơm.
7. Chịn xồm – món thịt chua của người Thái
Món này làm từ thịt trâu, thịt lợn, thịt bò, đôi khi là thú rừng, chỉ lấy thịt nạc. Chịn xồm mang thái miếng, kẹp rau thơm rừng chấm muối ớt (hoặc nước mắm ớt), ăn có mùi vị chua, béo và bùi, rất tinh khiết, thanh nhã.
8. Bánh đa Đô Lương
Bánh đa được làm từ bột gạo, tiêu, tỏi và các gia vị khác. Nguyên liệu tuy đơn giản, dễ kiếm nhưng để có một chiếc bánh ngon đòi hỏi rất nhiều công phu. Bánh đa là thứ bánh dân dã, dễ ăn kèm với các món khác hoặc ăn riêng cũng được. Món “bún giá cá ruốc” sẽ ngon hơn nhờ một miếng bánh đa, bỏ lên ít bún, thêm ít giá sống và cùng một mẩu nhỏ cá hấp, rồi chấm vào bát ruốc (mắm tôm) đã dầm ớt vắt chanh. Vị cay nồng hòa cùng vị ngọt bùi thêm một ít vị chua, khi ăn mồ hôi túa ra, thật sảng khoái!
9. Bánh mướt Diễn Châu
Diễn Châu có nhiều làng làm bánh mướt nổi tiếng, Bánh mướt ở đây nổi tiếng như bánh cuốn Thanh Trì (Hà Nội). Làng Quy Chính ở gần chợ Sa Nam (thị trấn Nam Đàn) nên bánh làm ra thường xuyên được bán ở chợ Sa Nam .
10. Cháo canh
Cũng tương tự như bánh canh ở Huế, Quảng Bình nhưng người dân xứ Nghệ quen gọi tên món này là cháo canh. Người đầu bếp sẽ phải nhào nặn bột mì (đã được trộn nước) cho đến khi bột thật nhuyễn, cán mỏng và cắt thành những sợi nhỏ, đều đặn. Đợi đến khi nồi nước xương đã được hầm nhừ, thả những sợi mì trắng xóa vào, cho thêm tôm, thịt băm đã xào với hành khô phi thơm phức là bạn đã có một bát cháo canh ngon lành rồi. Nên nếm thử món này ở địa chỉ cháo canh Đinh Công Tráng; cháo canh cổng thành (Cửa Nam).

Chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Du lịch Đặc Trưng Việt
Điện thọai: (+84) 974 861 652
Yahoo: vietnamtypicaltours | Skype: vietnamtypicaltours
Email: vietnamtypicaltour@gmail.com(+84) 974 861 652

Ẩm thực xứ Thanh

Thanh Hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều bậc hiền tài. Không chỉ thế, dường như mỗi ngọn núi, con sông hay bãi biển nơi đây… cũng trở thành một danh lam - thắng cảnh mang vẻ đẹp cổ kính, nguyên sơ và hấp dẫn.
Nem chua Thanh Hóa
Nem chua được làm ở khá nhiều nơi nhưng chỉ có ở mảnh đất xứ Thanh này ta mới tìm được hương vị tuyệt vời nhất. Nem xứ Thanh vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị ớt, tỏi, hạt tiêu lại có vị ngọt của thịt làm ta cứ muốn thưởng thức mãi chẳng muốn dừng.
Làm nem chua không khó nhưng để món nem ngon, đặc trưng thì lại cần có bí quyết của người làm và chắc chắn, với người Thanh, thứ bí quyết ấy đã làm nên niềm tự hào của ẩm thực nơi đây.
Chè lam Phủ Quảng
Chè lam là một món quà quê giản dị, dân dã mà ở nhiều vùng nước ta đều có. Nhưng có lẽ, nếu một lần thưởng thức món chè lam Phủ Quảng của huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa bạn mới phát hiện ra đây chính là nơi làm ra thứ chè ngon lam ngon nhất.
Chè lam được làm từ gạo nếp, lạc, gừng, mật mía thứ mật thơm ngon, đặc sánh và ngọt ngào. Gạo nếp sau khi được xay giã đến mức độ vừa phải (không quá trắng) thì được xay nhuyễn còn một phần gạo rang chín đều, lạc rang giã đôi giã ba, gừng tươi đồ chín rồi xắt lát... Tất cả những nguyên liệu ấy được ngào chung trong nồi mật mía vừa được đun sôi sánh óng ngọt lừ.
Khối mật óng ánh đông lại như ôm trọn tất cả các nguyên liệu lại rồi chờ bàn tay người đảo. Từng giọt mật óng vàng tan ra, thấm sâu vào phiến bột trắng ngần, từng hạt nếp cái hoa vàng vừa biến màu trên chảo gang đỏ lửa. Cuối cùng, sản phẩm thu được là thứ chè mềm, thơm, dẻo dẻo hòa quyện chút cay của gừng, và ôm trọn trong vị ngọt ngào của mật mía.
Dù đi xa, nhưng những người con Thanh Hóa vẫn luôn nhớ về hương vị dân dã phảng phất thứ khói bếp chắt chiu và nồng đượm đang hòa quyện trong những thanh chè lam bé nhỏ.
Bánh răng bừa
Nghe cái tên thật lạ thật hay mà hương vị của nó cũng thật thơm ngon, thú vị. Bánh răng bừa (có nơi gọi là bánh tẻ hoặc bánh lá), riêng người Thanh Hóa gọi tên như thế vì hình dạng chiếc bánh trông giống cái răng bừa. Đây là loại bánh truyền thống của người xứ Thanh thường được làm vào ngày rằm, ngày giỗ, ngày Tết Nguyên đán hay những khi nhà có công việc.
Mắm cáy
Khác với mắm tôm, mắm tép, mắm ruốc… mắm cáy có hương vị rất đặc biệt và được xếp vào loại ẩm thức có “cá tính” của người Thanh Hóa. Mắm cáy được làm từ con cáy, một loài giáp xác có hình thù giống con cua đồng hay con rạm nhưng nhỏ và nhanh hơn
Mắm cáy có màu đỏ au, nồng nồng pha chút gì đó ngai ngái như mùi của ruộng của đồng nhưng khi thưởng thức bạn sẽ cảm nhận được vị thơm, ngọt. Những món ăn hợp nhất để chấm với mắm cáy là thịt ba chỉ luộc, cà muối xổi, các loại rau luộc… Người ta hay có thú thưởng thức mắm cáy vào những ngày trời se lạnh hay có chút mưa nhẹ nhàng. Khi ấy, người ta sẽ cảm nhận được rõ ràng nhất cái đậm đà trong hương vị mắm cáy của quê hương.
Gỏi cá Sầm Sơn
Sầm Sơn là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng mà cứ mỗi khi hè về, du khách kéo về đây tấp nập. Và đến đây, nếu được thưởng thức món gỏi cá, thứ đặc sản tươi ngon của vùng chắc chắn chẳng ai quên được.  Nhiều người sợ ăn gỏi cá sẽ tanh, sống… nhưng đảm bảo với cách làm của người dân nơi này thì chẳng ai có thể cưỡng lại được sự lôi cuốn của nó.
Chả tôm
Nếu như Quảng Ninh là mảnh đất nổi tiếng với chả mực thì người Thanh Hóa lại nổi tiếng với món chả tôm với hương vị thơm ngon, độc đáo.
Theo người dân nơi này, làm món chả tôm không khó, nhưng đòi hỏi người làm phải tỉ mỉ, kiên trì và khéo léo, bởi nếu không cẩn thận, bạn có thể sẽ làm mất đi hương vị đặc trưng của món ăn.
Mỗi một đặc sản đã góp phần làm nên dấu ấn của văn hóa ẩm thực nơi này. Nếu một lần đến Thanh Hóa, bạn hãy mang về cho người thân, bạn bè một đặc sản nào đó của mảnh đất bình dị này nhé. Chắc chắn sẽ chẳng ai có thể quên được hương vị mộc mạc, dân dã còn đọng lại mãi trong từng thứ quà, bánh xứ Thanh.

Chi tiết vui lòng liên hệ:
Công ty Du lịch Đặc Trưng Việt
Điện thọai: (+84) 974 861 652(+84) 974 861 652
Yahoo: vietnamtypicaltours | Skype: vietnamtypicaltours
Email: vietnamtypicaltour@gmail.com